Vai trò của dinh dưỡng với bệnh không lây nhiễm

Sự thay đổi nhanh chóng của chế độ ăn và lối sống xảy ra cùng với công nghiệp hóa, đô thị hóa, phát triển kinh tế và toàn cầu hóa thị trường, đã tăng lên trong thập kỷ vừa qua. Điều này tác động có ý nghĩa tới tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của quần thể dân cư, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và các nước đang trong thời kỳ quá độ.

Trong khi mức sống được cải thiện, thực phẩm ngày càng sẵn có và đa dạng, sự tiếp cận với các dịch vụ ngày càng tăng, đã xuất hiện các hậu quả tiêu cực có ý nghĩa về các mặt như mô hình ăn uống không phù hợp, giảm hoạt động thể lực và tăng sử dụng thuốc lá, và tương ứng là sự gia tăng các bệnh mạn tính có liên quan tới ăn uống, đặc biệt là trong nhóm người nghèo.

Do những thay đổi trong chế độ ăn và lối sống, các bệnh mạn tính không lây bao gồm béo phì, đái tháo đường, bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đột quỵ và một số loại ung thư đang ngày càng trở thành các nguyên nhân có ý nghĩa của hiện tượng chết non và tàn tật ở các nước đang và mới phát triển.  Các yếu tố lối sống chính làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính không lây bao gồm chế độ dinh dưỡng không lành mạnh và không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ít hoạt động thể lực…

Dinh dưỡng đang giữ vị trí hàng đầu như là một yếu tố quyết định chính có thể điều chỉnh được đối với các bệnh mạn tính không lây, với các bằng chứng khoa học ngày càng nhiều, ủng hộ cho quan điểm sự thay đổi trong chế độ ăn tạo ra những sự tác động mạnh mẽ, cả tích cực lẫn tiêu cực, tới sức khỏe suốt cả cuộc đời của mỗi người. Quan trọng nhất là sự điều chỉnh chế độ ăn có thể không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe hiện tại mà còn có thể xác định một người sẽ phát triển các bệnh như ung thư, bệnh tim mạch và đái tháo đường hay không trong giai đoạn rất lâu về sau của cuộc đời.

Đối với các bệnh mạn tính không lây, nguy cơ xảy ra ở mọi lứa tuổi; ngược lại, mọi lứa tuổi là một phần liên tục của các cơ hội để phòng và chống các bệnh mạn tính này. Cả thiếu và thừa dinh dưỡng đều tác động tiêu cực tới sự phát triển bệnh, và có thể sự phối hợp cả hai yếu tố thì thậm chí còn tồi tệ hơn. Do vậy việc đảm bảo chế độ dinh dưỡng lành mạnh, hợp lý và an toàn trong suốt chu kỳ vòng đời, từ khi chuẩn bị mang thai, tới giai đoạn phát triển bào thai trong tử cung đến các giai đoạn tiếp theo của cuộc đời là quan trọng để dự phòng mắc các bệnh mạn tính không lây.

Giai đoạn phát triển bào thai và môi trường người mẹ

Có các bằng chứng cho thấy bào thai chậm tăng trưởng trong tử cung có liên quan với tăng nguy cơ bệnh mạch vành tim, đột quỵ, đái tháo đường và tăng huyết áp. Việc chậm tăng trưởng bào thai có thể được theo sau bởi sự tăng trưởng bù rất nhanh sau khi sinh cũng có thể là yếu tố quan trọng trong cơ chế bệnh sinh cơ bản. Kích thước lớn khi sinh cũng liên quan tới tăng nguy cơ đái tháo đường và bệnh tim mạch. Cân nặng khi sinh cao cũng liên quan tới tăng nguy cơ ung thư vú và các loại ung thư khác.

Giai đoạn sơ sinh dưới 1 tuổi

Chậm tăng trưởng trong giai đoạn sơ sinh dưới 1 tuổi có thể được phản ánh bằng hiện tượng không tăng cân và không tăng chiều cao. Cả chậm tăng trưởng và tăng chiều cao hoặc cân nặng tăng quá mức đều có thể là các yếu tố làm mắc bệnh mạn tính sau này, không kể kích thước khi sinh. Huyết áp đã được phát hiện là cao nhất ở những người chậm tăng trưởng bào thai và tăng cân cao hơn trong giai đoạn dưới 1 tuổi. Vóc dáng thấp cũng liên quan tới tăng nguy cơ bệnh mạch vành tim và đột quỵ, và ở mức độ nào đó cũng liên quan tới đái tháo đường. Nguy cơ đột quỵ và có thể cả tử vong do ung thư ở một vài vị trí bao gồm vú, tử cung, đại tràng, tăng lên nếu những đứa trẻ thấp hơn biểu hiện sự tăng trưởng nhanh hơn về chiều cao.

Nuôi con bằng sữa mẹ: Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy trong số trẻ để đủ tháng và thiếu tháng, bú mẹ có liên quan một cách có ý nghĩa với mức huyết áp thấp hơn trong giai đoạn thơ ấu. Việc cho ăn sữa ngoài thay cho sữa mẹ trong giai đoạn dưới 1 tuổi cũng cho thấy làm tăng huyết áp tâm trương và huyết áp động mạch trung bình trong giai đoạn sau của cuộc đời, tăng tỷ lệ tử vong ở tuổi trưởng thành. Nguy cơ đối với một số bệnh mạn tính của thời kỳ thơ ấu và trưởng thành đó là đái tháo đường type 1, bệnh nội tạng, một số ung thư trẻ em, bệnh viêm ruột… cũng có liên quan tới nuôi dưỡng trẻ nhỏ về các sản phẩm thay thế sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ trong thời gian ngắn.

Giai đoạn thơ ấu và vị thành niên

Chậm tăng trưởng thời thơ ấu đã được quan sát thấy có liên quan tới tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành tim, bất kể kích thước khi sinh. Nghiên cứu ở trẻ 11-12 tuổi tại Jamica cho thấy mức huyết áp cao nhất ở trẻ chậm tăng trưởng bào thai và tăng cân nhiều hơn trong giai đoạn giữa 7 và 11 tuổi. Nghiên cứu ở trẻ em Ấn Độ có cân nặng khi sinh thấp được cho là có đặc điểm cơ ít nhưng dự trữ mỡ lại cao tồn tại trong suốt giai đoạn sau sinh và có liên quan tăng mô mỡ trung tâm và do đó tăng nguy cơ tăng huyết áp và bệnh tật. Huyết áp cao hơn ở thời thơ ấu (cùng với các yếu tố nguy cơ khác) gây nên những thay đổi giải phẫu và các cơ quan đích trong cơ thể có liên quan tới nguy cơ bệnh tim mạch, bao gồm giảm tính đàn hồi thành động mạch, tăng kích thước và khối lượng tâm thất, tăng động lực mạch máu trong thì tâm thu và sức cản ngoại vi.

Vóc dáng thấp (bao gồm cả chiều dài lúc nhỏ) có liên quan tới tăng nguy cơ bệnh mạch vành tim và đột quỵ, và mức độ nào đó tới đái tháo đường.

Cân nặng tương đối ở thời kỳ trưởng thành và mức tăng cân đã được phát hiện có liên quan tới tăng nguy cơ ung thư vú, đại tràng, trực tràng, tuyến tiền liệt và các vị trí khác. Cơ quan Nghiên cứu về Ung thư quốc tế đã khẳng định rằng có bằng chứng rõ ràng về mối liên hệ giữa sự xuất hiện béo phì (cả sớm và muộn) và nguy cơ ung thư.

Tăng huyết áp, giảm dung nạp glucose và rối loạn lipid trong máu có liên quan tới trẻ em và trẻ vị thành niên với lối sống không lành mạnh, như các chế độ ăn có quá nhiều chất béo (đặc biệt là chất béo no), cholesterol và muối, khẩu phần ăn không đủ chất xơ và kali, thiếu tập thể dục, và tăng xem vô tuyến. Ít hoạt động thể lực.

Khẩu phần năng lượng ở thời thơ ấu cũng có liên quan thuận với tỷ lệ tử vong do ung thư, mạch vành tim, đột quỵ và bệnh hô hấp ở người trưởng thành.

Giai đoạn trưởng thành

Đây là giai đoạn mà hầu hết các bệnh mạn tính được thể hiện, cũng như là thời gian mang tính quyết định đối với việc giảm các yếu tố nguy cơ mang tính dự phòng và đối với tăng hiệu quả điều trị.

Các yếu tố nguy cơ chính trong giai đoạn này là sử dụng thuốc lá, béo phì, ít hoạt động thể lực, cholesterol, tăng huyết áp, và uống rượu làm tăng nguy cơ bệnh mạch vành và đột quỵ, đái tháo đường và ung thư.

Lão hóa và người cao tuổi

Người cao tuổi là những người từ 60 tuổi trở lên. Hầu hết bệnh mạn tính xuất hiện ở giai đoạn này của cuộc đời – kết quả tương tác giữa các quá trình tiến triển đa bệnh cũng như sự suy giảm chức năng sinh lý nói chung. Các bệnh mạn tính đạt tới đỉnh cao ở giai đoạn này, như đái tháo đường type 2 và một số loại ung thư. Gánh nặng chính của bệnh mạn tính không lây được quan sát thấy ở giai đoạn này, do đó cần được giải quyết.

Trước đây người ta nghĩ rằng các yếu tố nguy cơ không tăng lên một cách có ý nghĩa sau thời điểm ở một độ tuổi già nhất định và rằng không có lợi ích gì trong việc thay đổi các thói quen, như thói quen ăn uống, sau 80 tuổi. Sau đó có một thời gian người cao tuổi được khuyến khích thay đổi chế độ ăn của họ, thậm chí là quá khắt khe để có được lợi ích mong muốn. Gần đây, người cao tuổi được khuyến khích ăn một chế độ ăn lành mạnh – càng nhiều và đa dạng càng tốt trong khi vẫn duy trì cân nặng của họ - và đặc biệt là tập thể dục. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ cao tuổi ăn 5-10 đơn vị rau quả một ngày có nguy cơ bị xơ vữa động mạch ít hơn khoảng 30% so với phụ nữ chỉ ăn 2-5 đơn vị rau quả một ngày. Các bệnh nhân cao tuổi có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch cao hơn, họ có thể đạt được nhiều hơn từ việc sửa đổi các yếu tố nguy cơ.

Sự tương tác giữa các yếu tố nguy cơ sớm và muộn hơn trong suốt cuộc đời

Cân nặng khi sinh thấp, theo sau là béo phì khi trưởng thành có tác động tới nguy cơ đặc biệt cao về bệnh mạch vành tim, giảm dung nạp glucose và đái tháo đường.

Chậm phát triển trong tử cung và theo sau là sự tăng trưởng bù về cân nặng và chiều cao diễn ra một cách nhanh chóng làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạn tính không lây ở người trưởng thành.

Có nhiều bằng chứng cũng cho thấy nguy cơ cao mắc các bệnh mạch vành tim, đột quỵ, và có thể là đái tháo đường xuất hiện ở người trưởng thành có vóc dáng thấp.

Các tác động liên thế hệ

Những trẻ gái tăng trưởng kém thường trở thành những người phụ nữ còi cọc và có nhiều khả năng đẻ ra những đứa trẻ có cân nặng khi sinh thấp, và rồi những đứa trẻ này lại có thể tiếp tục chu kỳ này bằng cách trở thành những người trưởng thành còi cọc, và cứ tiếp diễn như vậy.

Kích thước khi sinh của người mẹ là yếu tố dự báo có ý nghĩa đối với kích thước của đứa trẻ. Có bằng chứng rõ ràng về yếu tố liên thế hệ trong béo phì, như tình trạng béo phì của bố mẹ, đái tháo đường khi mang thai của người mẹ và cân nặng khi sinh của người mẹ. Cân năng khi sinh của người mẹ thấp có liên quan tới mức huyết áp cao hơn ở con cái.

Sự tương tác giữa gen-chất dinh dưỡng và tính nhạy cảm di truyền

Có các bằng chứng cho thấy các chất dinh dưỡng và hoạt động thể lực ảnh hưởng tới sự biểu hiện của gen và hình thành bộ gen. Gen xác định các cơ hội đối với sức khỏe và tính nhạy cảm đối với bệnh tật. Trong khi đó các yếu tố môi trường xác định các cá thể nhạy cảm sẽ phát triển bệnh. Sự tương tác gen-chất dinh dưỡng cũng liên quan tới môi trường.

Tóm lại, có một số lượng lớn bằng chứng khoa học nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng giải pháp vòng đời để phòng và chống các bệnh mạn tính không lây. Các vấn đề chính:

  1. Các chế độ ăn không lành mạnh, ít hoạt động thể lực và hút thuốc đã được khẳng định là các hành vi nguy cơ đối với các bệnh mạn tính không lây.
  2. Các yếu tố nguy cơ sinh học như tăng huyết áp, béo phì, tăng lipid máu đã được khẳng định là các yếu tố nguy cơ đối với bệnh mạch vành tim, đột quỵ và đái tháo đường.
  3. Các chất dinh dưỡng và hoạt động thể lực ảnh hưởng tới sự biểu hiện của gen và có thể xác định tính nhạy cảm đối với bệnh tật.
  4. Các yếu tố nguy cơ về hành vi và sinh học xuất hiện và tác động trong giai đoạn sớm của cuộc đời, và tiếp tục có tác động tiêu cực trong suốt quá trình diễn biến của cuộc đời.
  5. Các yếu tố sinh học chính có thể tiếp tục ảnh hưởng tới sức khỏe của thế hệ sau.
  6. Môi trường dinh dưỡng đầy đủ và hợp lý ở giai đoạn sau khi sinh là quan trọng.
  7. Trên toàn cầu, các xu hướng về tỷ lệ nhiều yếu tố nguy cơ đang tăng lên, đặc biệt đối với béo phì, không hoạt động thể lực và, ở thế giới đang phát triển đặc biệt là hút thuốc lá.
  8. Các can thiệp được lựa chọn là hiệu quả phải được mở rộng ra ngoài các yếu tố nguy cơ cá thể và tiếp tục trong suốt cả cuộc đời.
  9. Cải thiện chế độ ăn và tăng mức hoạt động thể lực ở người trưởng thành và người cao tuổi sẽ giảm nguy cơ tử vong và tàn tật của các bệnh mạn tính.
  10. Dự phòng cấp hai thông qua chế độ ăn và hoạt động thể lực là một chiến lược bổ sung làm chậm sự tiến triển của các bệnh mạn tính đang tồn tại và giảm tỷ lệ tử vong và gánh nặng bệnh tật do các bệnh này gây ra.

Như vậy, rõ ràng là các yếu tố nguy cơ phải được giải quyết trong suốt cuộc đời. Can thiệp dự phòng (cấp 1) là để dịch chuyển toàn bộ quần thể dân cư theo hướng lành mạnh hơn. Những thay đổi nhỏ về các yếu tố nguy cơ trong số đông dân cư có thể tác động lớn về mặt nguy cơ quần thể về tử vong và tàn tật. Bằng cách phòng bệnh cho quần thể dân cư lớn, mức giảm huyết áp, cholesterol máu … tuy nhỏ nhưng có thể làm giảm mạnh chi phí về y tế. Ví dụ cải thiện lối sống có thể làm giảm nguy cơ tiến triển đái tháo đường tới 58% trong 4 năm. Các nghiên cứu quần thể khác cũng cho thấy có tới 80% các trường hợp bệnh mạch vành tim, và tới 90% trường hợp đái tháo đường type 2 có thể tránh được thông qua thay đổi các yếu tố lối sống, và khoảng 1/3 các trường hợp ung thư có thể tránh được bằng cách ăn uống lành mạnh, duy trì cân nặng bình thường và tập thể dục trong suốt cả cuộc đời.

TS. BS. Đỗ Thị Phương Hà - Viện Dinh dưỡng Quốc gia